Thứ Sáu, 7 tháng 1, 2022

Vaccine đã thay đổi lịch sử loài người như thế nào?

Khoa học đã có những bước tiến dài trên con đường phòng chống dịch bệnh. Nước Nga thời Nga hoàng và Liên Xô là một trong những quốc gia tiến bộ nhất về tiêm chủng và bảo vệ dân chúng trước các bệnh truyền nhiễm.

Lịch sử

Trong phần lớn lịch sử của mình, nhân loại đã bất lực trước những trận dịch lớn. Bệnh đậu mùa ảnh hưởng đến hàng triệu người mỗi năm. Căn bệnh này giết chết 20-30% những người mắc bệnh (90% trẻ sơ sinh), thường là trong đau đớn và những người thoát chết thường bị biến thành tàn phế, mù và dị dạng. Ở Châu Âu, bệnh đậu mùa là nguyên nhân gây ra 10-20% số ca tử vong. Ở Mỹ, nó được sử dụng như một vũ khí diệt chủng - giải phóng "không gian sống" khỏi thổ dân da đỏ.

Tiêm phòng dại tại phòng khám Pasteur ở Paris
Tiêm phòng dại tại phòng khám Pasteur ở Paris. (Nguồn: topwar.ru)

Chỉ trong thế kỷ 20, căn bệnh này đã giết chết hơn 300 triệu người. Các nhà khoa học nhận thấy, những người từng bị đậu mùa không bị bệnh nữa, mở ra con đường cho nhân loại tạo ra vaccine. Người ta đã cố gắng gây ra bệnh đậu mùa nhẹ để ngăn ngừa nguy cơ bệnh nặng và tử vong. Vào thời Trung cổ, những nỗ lực ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm đã được biết đến ở Ấn Độ và Trung Quốc.

Phương pháp lây nhiễm nhân tạo đã được sử dụng - cấy vào người khỏe mạnh chất lỏng từ nước mụn của những bệnh nhân bị bệnh đậu mùa dạng nhẹ, hay theo phương pháp “xông mũi”, tức là hít vật liệu đậu mùa dạng bột (thường là vảy) qua mũi. Các phương pháp dân gian tương tự để chống lại bệnh đậu mùa đã được sử dụng ở châu Phi, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga.

Bệnh đậu mùa ảnh hưởng đến tất cả mọi người - giàu và nghèo, bình dân và quý tộc. Vì vậy, vào thế kỷ 18, lây nhiễm nhân tạo là “mốt” trong xã hội thượng lưu. Khi vua Louis XV của Pháp qua đời vì bệnh đậu mùa vào năm 1774, cháu trai của ông là Louis XVI đã được tiêm chủng. Không lâu trước khi xảy ra dịch bệnh đậu mùa khác, Hoàng hậu Nga Catherine II đã tìm đến bác sĩ người Anh Thomas Dimsdale để được giúp đỡ.

Tháng 10/1768, bác sĩ Dimsdale đã cấy thành công mầm bệnh cho Hoàng hậu và người thừa kế ngai vàng, Hoàng đế tương lai Paul I. Đây là sự khởi đầu của việc tiêm chủng hàng loạt ở Nga. Để tri ân, bác sĩ người Anh đã nhận được danh hiệu Nam tước và một khoản trợ cấp nhân thọ. Catherine thậm chí đã lên kế hoạch thực hiện một cuộc tiêm phòng hoàn chỉnh cho toàn bộ người dân của đế chế, nhưng không có kết quả. Nhà nước không có đủ nguồn lực cho việc đó và người dân phải đối đầu với dịch bệnh mới.

Đánh bại bệnh đậu mùa

Trong một thời gian dài, bác sĩ người Anh Edward Jenner (1749-1823) đã thu thập thông tin về tỷ lệ mắc bệnh đậu mùa ở nông dân. Người ta nhận thấy bệnh đậu bò không nguy hiểm cho con người và những người đã mắc bệnh này hầu như không bao giờ bị bệnh đậu mùa. Jenner đã đi đến kết luận có thể lây nhiễm nhân tạo cho một người mắc bệnh đậu bò để bảo vệ người này khỏi các bệnh tự nhiên.

Năm 1796, Jenner tiến hành một thí nghiệm - ông đã tiêm vaccine (từ chữ vacca (của bò) trong tiếng Latin) cho một cậu bé 8 tuổi. Sau một thời gian, cậu bé bị nhiễm bệnh đậu mùa, nhưng bệnh không phát triển. Những người khác cũng làm thí nghiệm tương tự, nhưng Jenner là người đã công bố phương pháp của mình. Phương pháp này bắt đầu thực hành trên khắp thế giới. Ở Anh, việc tiêm phòng bệnh đậu mùa đã được thực hiện bắt buộc đối với quân đội và hải quân. Ở Nga, vaccine Jenner lần đầu tiên được Giáo sư Efrem Mukhin chế tạo vào năm 1801.

Một bệnh nhân bệnh đậu mùa.
Một bệnh nhân bệnh đậu mùa. (Nguồn: topwar.ru)

Do vật liệu ghép lấy từ mụn mủ (áp-xe) của những đứa trẻ được tiêm vaccine, do đó có nguy cơ cao bị nhiễm trùng phụ với các bệnh như giang mai... Do đó, vào năm 1852, A. Negri đề xuất lấy vaccine đậu mùa từ những con bê đã được tiêm phòng. Tại Đại hội XI của Tổ chức Y tế Thế giới, chương trình xóa sổ bệnh đậu mùa đã được phái đoàn Liên Xô đề xuất vào năm 1958. Năm 1967, WHO đã khởi động một chương trình tiêm phòng đậu mùa lớn, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong, đặc biệt là ở trẻ em.

Bệnh dại, bệnh dịch hạch và bệnh tả

Vào nửa sau của thế kỷ 19, khoa học đã có những bước tiến dài. Đặc biệt, miễn dịch học thực nghiệm giúp nghiên cứu các quá trình xảy ra trong cơ thể sau khi tiêm chủng. Louis Pasteur (1822-1895) - nhà khoa học, nhà hóa học và vi sinh học nổi tiếng người Pháp, người sáng lập ngành vi sinh vật học và miễn dịch học đã kết luận rằng phương pháp tiêm chủng có thể được áp dụng để điều trị các bệnh truyền nhiễm khác.

Trên mô hình của bệnh dịch tả gà, nhà khoa học này đã đưa ra một kết luận có cơ sở thực nghiệm rằng, một căn bệnh mới sẽ bảo vệ khỏi một căn bệnh tiếp theo. Ông đã định nghĩa trường hợp không tái phát bệnh truyền nhiễm sau khi tiêm chủng là "khả năng miễn dịch". Năm 1881, một nhà miễn dịch học người Pháp đã phát hiện ra thuốc chủng ngừa bệnh than. Sau đó, một loại vaccine đã được phát triển để chống lại bệnh dại. Năm 1885, trạm chống bệnh dại đầu tiên xuất hiện ở Paris.

Trạm chống bệnh dại thứ hai do Ilya Mechnikov thành lập ở Nga. Năm 1886, một "trạm Pasteur" đã xuất hiện ở Odessa. Trạm này trở thành trung tâm nghiên cứu vi khuẩn học đầu tiên ở Nga. Ngay sau đó, các trạm antirabies-Pasteur đã được tạo ra ở các thành phố khác của Nga. Chúng được tạo ra bằng tiền của các chủ sở hữu tư nhân, vì vậy chỉ có thể trang trải hoàn toàn nhu cầu của đất nước trong những năm 1930. Thành công trên cho phép Pasteur chống lại làn sóng chỉ trích các phương pháp của ông.

Năm 1888, một viện đặc biệt chống bệnh dại và các bệnh truyền nhiễm khác được thành lập tại thủ đô của Pháp, sau này được đặt theo tên của người tạo ra nó. Những khám phá của Mechnikov và Ehrlich đã giúp nghiên cứu bản chất của khả năng miễn dịch cá thể của sinh vật đối với các bệnh truyền nhiễm. Họ đã tạo ra một học thuyết thống nhất về khả năng miễn dịch và được trao giải Nobel năm 1908.

 Tem bưu điện vinh danh nhà khoa học Liên Xô.

Tem bưu điện vinh danh nhà khoa học Liên Xô. (Nguồn: topwar.ru)

Năm 1892, một học trò khác của Mechnikov là Vladimir Khavkin đã tạo ra loại vaccine đầu tiên chống lại bệnh tả. Năm 1893, với sự giúp đỡ của Anh, ông đã phát động một chương trình tiêm chủng đại trà chống lại bệnh dịch tả ở Ấn Độ thuộc Anh, nơi dịch bệnh lan tràn. Khi đại dịch dịch hạch bắt đầu lan rộng ở Ấn Độ, Khavkin đã tạo ra một loại vaccine chống lại bệnh dịch hạch. Viện Miễn dịch học Trung ương của Mumbai được đặt theo tên của nhà khoa học này.

Một nhà khoa học người Nga khác, Magdalena Pokrovskaya, đã tạo ra một loại vaccine chống lại bệnh dịch hạch bằng virus sống. Trong Nội chiến, bà đã điều tra các đợt bùng phát bệnh dịch hạch và sốt rét ở miền Đông Nam nước Nga. Năm 1934, một loại vaccine được tạo ra. Trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Pokrovskaya đã tạo ra một công nghệ điều trị các bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng bằng cách sử dụng vi khuẩn - loại virus đặc biệt tiêu diệt vi khuẩn.

Chiến thắng của Liên Xô trên mặt trận vô hình

Năm 1919, chính phủ Liên Xô ban hành sắc lệnh bắt buộc tiêm phòng bệnh đậu mùa. Sau khi Nội chiến kết thúc, khi nhiều người chết do dịch bệnh và khả năng miễn dịch suy yếu (suy dinh dưỡng, đói kém, điều kiện vệ sinh kém…), sự lây lan của bệnh đậu mùa ở Liên Xô đã được giảm thiểu và cuối cùng đã bị dập tắt vào những năm 1930. Năm 1925, việc tiêm chủng hàng loạt cho trẻ em chống lại bệnh lao đã được đưa ra. Việc tiêm phòng đại trà chống bệnh bại liệt ở Liên Xô bắt đầu từ năm 1959, và đến cuối năm 1960, tất cả công dân Liên Xô dưới 20 tuổi đều được tiêm phòng bệnh này.

Năm 1958, lịch trình tiêm chủng phòng ngừa được thực hiện và có hiệu lực ở Nga cho đến ngày nay. Ban đầu, chương trình bao gồm vaccine phòng bệnh đậu mùa, bệnh lao, ho gà, bạch hầu và bại liệt. Sau đó tiêm vaccine phòng uốn ván và quai bị đã được đưa vào lịch. Trong 30 năm qua, một số chủng ngừa đã được thêm vào lịch: chống lại bệnh viêm gan B, bệnh hemophilus influenza, cúm, nhiễm trùng HIB.

Ngày nay, ở Nga có 8 loại vaccine bắt buộc: chống viêm gan B, lao, nhiễm trùng phế cầu, DPT (chống uốn ván, bạch hầu và ho gà), bại liệt, nhiễm trùng máu khó đông (đối với trẻ em có nguy cơ mắc bệnh), sởi và quai bị, và cúm. Ngoài ra còn có các chủng ngừa được thực hiện theo hướng dẫn y tế. Ví dụ như bệnh viêm não do ve, bệnh dịch hạch, bệnh dại, bệnh than, bệnh thương hàn, bệnh tả... Nga thời Nga hoàng và Liên Xô là một trong những quốc gia tiến bộ nhất về tiêm chủng và bảo vệ dân chúng trước các bệnh truyền nhiễm.

Theo VOV

Vấn đề khi nhấn? Chép và dán URL này vào trình duyệt:
https://anle20.wordpress.com/2022/01/07/vaccine-da-thay-doi-lich-su-loai-nguoi-nhu-the-nao/


10 nguyên nhân làm tăng huyết áp


10 nguyên nhân làm tăng huyết áp

bởi anle20

Các nguyên nhân khiến huyết áp của bạn tăng cao

Tăng huyết áp là gì?

Theo hướng dẫn điều trị tăng huyết áp của Bộ Y tế ban hành năm 2010, tăng huyết áp được định nghĩa là khi huyết áp tâm thu >= 140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương >= 90mmHg (Tuy nhiên, cần lưu ý ngưỡng huyết áp định nghĩa này chỉ áp dụng đối với đo huyết áp theo đúng quy trình tại bệnh viện/phòng khám. Còn nếu đo huyết áp tại nhà hay đo huyết áp lưu động, chẩn đoán tăng huyết áp sẽ sử dụng các ngưỡng huyết áp khác nhau).

Nguyên nhân gây tăng huyết áp

Phần lớn tăng huyết áp ở người trưởng thành đều không rõ nguyên nhân (tăng huyết áp nguyên phát), chỉ có khoảng 10% các trường hợp là có nguyên nhân (tăng huyết áp thứ phát). Nguyên nhân của tăng huyết áp có thể được phát hiện thông qua khai thác tiền sử, khám lâm sàng và các kết quả cận lâm sàng thường quy. Một số trường hợp tăng huyết áp cần lưu ý tìm kiếm nguyên nhân bao gồm: tăng huyết áp ở tuổi trẻ (<30 tuổi), tăng huyết áp kháng trị, tăng huyết áp tiến triển hoặc ác tính.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), các bệnh về tim mạch ảnh hưởng đến khoảng 80% dân số sống ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Nguyên nhân chính của căn bệnh gây tử vong cao này là do cao huyết áp.

Dưới đây là 10 nguyên nhân hàng đầu khiến bạn bị tăng huyết áp, bạn cần biết để phòng tránh:

1. Tuổi tác

Khi bạn càng nhiều tuổi, bạn càng có nhiều nguy cơ bị huyết áp cao. Những người cao tuổi có nguy cơ cao tăng chỉ số huyết áp tâm thu. Nguy cơ này là do xơ cứng động mạch.

2. Di truyền

Nếu bạn có tiền sử gia đình bị cholesterol tăng thì bạn cần cảnh giác. Dạng cao huyết áp do di truyền có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe đối với người trẻ tuổi.

10 nguyên nhân làm tăng huyết áp
Ảnh minh họa: Doctormurray.com.

3. Giới tính

Nam giới được cho là có nguy cơ lớn hơn bị huyết áp cao so với nữ giới. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa phụ nữ không cần lo lắng. Vì vậy hãy duy trì thói quen sống và ăn uống lành mạnh.

4. Thừa cân

Thừa cân hoặc béo phì có thể là một trong những nguyên nhân hàng đầu của huyết áp cao nhưng có sự khác nhau ở mỗi người. Những người tích trữ nhiều mỡ ở bụng, mông và đùi có nguy cơ cao hơn bị huyết áp cao. Vì vậy hãy duy trì cân nặng.

5. Ăn mặn

Một số người bị nhạy cảm với muối hoặc natri, điều này khiến cho họ bị tăng huyết áp. Nếu bạn nằm trong số này thì lựa chọn an toàn duy nhất là giảm lượng muối tiêu thụ. Bạn phải rất thận trọng khi sử dụng muối để chế biến thức ăn và đọc kỹ nhãn mác của bất cứ loại thực phẩm chế biến sẵn nào. Thức ăn nhanh có hàm lượng muối cao vì vậy bạn nên hạn chế những loại thức ăn này.

6. Uống rượu

Nếu bạn bị say chỉ với 2 cốc rượu thì đó là dấu hiệu cho thấy bạn nên ngừng uống. Uống nhiều rượu có hại cho sức khỏe cũng như huyết áp của bạn. Do đó, hãy tránh uống nhiều rượu để duy trì huyết áp ổn định.


Hãy tránh uống nhiều rượu để duy trì huyết áp ổn định. (Ảnh minh họa: internet).

7. Cuộc sống căng thẳng

Cuộc sống của bạn bị căng thẳng thường xuyên do công việc hoặc các nguyên nhân khác, đây là lý do có thể khiến huyết áp của bạn bị tăng lên. Hãy giải tỏa mọi căng thẳng, giữ sự bình tĩnh và thư giãn chính bạn.

8. Tránh thai

Trong một nghiên cứu gần đây, người ta thấy rằng sử dụng thường xuyên thuốc tránh thai làm tăng nguy cơ bị huyết áp cao.

9. Lối sống lười vận động

Lối sống lười vận động không chỉ khiến vòng bụng của bạn to ra mà còn khiến bạn có nguy cơ cao bị tăng huyết áp. Vì vậy hãy tăng cường vận động dưới bất cứ hình thức nào mà bạn thích, có thể là tập một môn thể thao hoặc đi bộ tới chỗ làm. Lý do mà hoạt động thể chất có thể làm giảm nguy cơ tăng huyết áp của bạn là vì vận động sẽ giúp bạn lưu thông mạch máu, duy trì áp suất trong tĩnh mạch và động mạch trong giới hạn bình thường.

10. Một số loại thuốc

Một số loại thuốc được sử dụng để điều trị các triệu chứng cảm lạnh hoặc dị ứng có thể làm tăng huyết áp của bạn. Do đó, hãy hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng bất cứ loại thuốc nào và cho bác sĩ biết về tiền sử bệnh của bạn để tránh các biến chứng.

Các triệu chứng của huyết áp cao

Thật không may, cao huyết áp không gây ra bất kỳ triệu chứng cụ thể hoặc rõ ràng nào. Chính vì vậy, đây thường được gọi là "kẻ giết người thầm lặng", theo TS Singh.

Mặc dù căn bệnh này không có triệu chứng rõ rệt, nhưng nếu không được điều trị, nó có thể dẫn đến những tổn thương ở các cơ quan khác trong cơ thể, kéo theo những bệnh khác nhau và xuất hiện thêm các triệu chứng khác.

Một số ví dụ phổ biến đó là đau ngực liên quan đến đau tim hoặc suy nhược, chóng mặt xảy ra khi đột quỵ, Tiến sĩ Suneet Singh - Giám đốc Trung tâm chăm sóc sức khỏe CareHive tại Austin, Texas, Hoa Kỳ cho biết.

Làm cách nào để hạ huyết áp?

Theo TS Singh, một số biện pháp cơ bản có thể được sử dụng trong tất cả các trường hợp tăng huyết áp nhằm giảm huyết áp cũng như tăng cường sức khỏe tim mạch tổng thể. Đó là :

  • Giảm muối, thịt đỏ, chất béo bão hòa và uống rượu
  • Luyện tập tim mạch thường xuyên, chẳng hạn như đi bộ nhanh hoặc chạy 30 phút mỗi ngày
  • Duy trì cân nặng hợp lý
  • Giảm bớt căng thẳng
  • Tránh tất cả các sản phẩm thuốc lá

Tiến sĩ Singh nói: “Nếu huyết áp của bạn vẫn cao dù đã điều chỉnh lối sống, bạn có thể sử dụng thêm một số loại thuốc. Các bác sĩ sẽ trao đổi với bạn để xác định chế độ dùng thuốc nào là tốt nhất.

Điểm mấu chốt đó là, vì huyết áp cao không có triệu chứng, nên điều cần làm đó là đi kiểm tra sức khỏe thường xuyên. Càng được chẩn đoán sớm, bạn càng sớm có những thay đổi lành mạnh hơn".

Theo Khoa hoc & TV

anle20 | 4 Tháng Một, 2022 lúc 06:12 | Chuyên mục: Uncategorized | URL: https://wp.me/pxlzY-ot7

Bình luận   Xem tất cả bình luận   Thích

Hủy đăng ký để không nhận bài viết mới từ Anle20's Blog.
Thiết lập email trong Quản lý đăng ký.

Vấn đề khi nhấn? Chép và dán URL này vào trình duyệt:
https://anle20.wordpress.com/2022/01/04/10-nguyen-nhan-lam-tang-huyet-ap/

Trịnh Công Sơn với Văn Cao

                 Văn Cao, Trịnh Công Sơn, hai nhạc sĩ, hai thế hệ. Nhạc sĩ Văn Cao sinh năm 1923, còn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh năm 1939. Hơn Trịnh Công Sơn 16 tuổi, Văn Cao coi Sơn như một người bạn vong niên, bạn nghề, bạn rượu, bạn đời. Họ thương nhau, họ yêu nhau và kính trọng nhau

Tôi nhớ lần đầu tiên hai người gặp nhau. Vào khoảng đầu năm 1980, tôi từ Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp về thăm ông. Hai cha con đang ngồi tâm sự với nhau thì thấy nhạc sĩ Hồng Đăng cùng nhạc sĩ Trần Tiến mở cửa vào, đằng sau là một thanh niên đội chiếc mũ vải mềm, một chiếc kính trắng gọng đồi mồi to ngự trên khuôn mặt bé nhỏ. Dáng vóc gầy gò khép nép, chàng trai chắp tay cúi gập người chào cha tôi với chất giọng Huế nhỏ nhẹ: "Dạ! Con chào chú". Nhạc sĩ Hồng Đăng vội giới thiệu: "Thưa anh Văn. Đây là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trong Nam ra. Sơn rất ngưỡng mộ anh, bọn em đưa Sơn đến thăm anh".

Ảnh: Đ.N

Cha tôi chăm chú nhìn Trịnh Công Sơn giây lát rồi nhổm người lên bắt tay: "Trịnh Công Sơn đây hả? Tớ gặp cậu rồi...”. Thấy mọi người có vẻ ngạc nhiên, cha tôi cười nói: “Gặp qua tác phẩm! Tớ đã nghe nhạc của cậu từ lâu, từ ngày đất nước còn chưa thống nhất". Trầm ngâm giây lát, ông nói: "Một lần có mấy anh bạn trẻ rủ mình đến nhà uống rượu, vui lên, họ hát cho mình nghe những ca khúc của Sơn mà họ học được qua những buổi phát thanh của đài Sài Gòn. Họ hát say sưa, hát thâu đêm. Âm nhạc và lời ca của Sơn đi vào lòng mọi người như thế đấy".

Trịnh Công Sơn gỡ kính ra, lấy mùi xoa thấm mắt, rồi chắp tay cúi đầu: "Dạ! Con cám ơn chú".

- Mình là thế hệ trước, cậu là thế hệ sau. Chúng ta cùng nghề không phân biệt tuổi tác làm gì, từ giờ hãy gọi nhau là anh em cho thân mật.

Trịnh Công Sơn cảm động chắp tay: "Dạ! Dạ!... Cháu... à... em, em cám ơn anh".

Buổi gặp gỡ giữa cha tôi với  nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng nhạc sĩ Hồng Đăng, nhạc sĩ Trần Tiến ngày hôm đó diễn ra vui vẻ và ấm áp. Họ nói với nhau nhiều chuyện, bàn luận sôi nổi về nghệ thuật. Không còn khái niệm của tuổi tác. Tôi cảm nhận được cha tôi và Trịnh Công Sơn đã trở thành đôi bạn tri kỷ theo đúng nghĩa của nó. Tôi ngồi nhìn mọi người nói, chỉ biết nghe và nghe.

Từ đấy, hằng năm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đều ra Hà Nội thăm nhạc sĩ Văn Cao. Không những thế, Trịnh Công Sơn còn đưa những người bạn của mình là các nhạc sĩ Tự Huy, Trần Long Ẩn, Nguyễn Văn Hiên, Tôn Thất Lập... đến với Văn Cao. Ngôi nhà 108 Yết Kiêu trở thành nơi tụ hội của anh em nhạc sĩ trẻ miền Nam. Mỗi lần ra Hà Nội, Trịnh Công Sơn thường thuê những khách sạn ở gần nhà Văn Cao để bất cứ lúc nào rỗi là có thể đi bộ đến thăm và uống rượu cùng ông. Với Trịnh Công Sơn, Văn Cao bao giờ cũng dành những loại rượu đặc biệt và ngon nhất để uống cùng. Nhạc sĩ Văn Cao có một loại rượu "quốc lủi" nút lá chuối trong vắt được nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng, mỗi khi rót ra tăm nổi lên như mắt cua đóng vòng quanh chén như một chiếc đai ngọc. Trịnh Công Sơn rất mê loại rượu này, ông gọi nó là "Rượu Văn Cao".

 Sau khi cha tôi mất, mỗi lần có dịp đi Sài Gòn, tôi đều mang "Rượu Văn Cao" vào biếu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông trân trọng đặt lên ban thờ thắp hương cẩn thận xong rồi mới gọi bạn bè đến uống. Ông ôm lấy tôi: "Mình nhớ anh Văn quá, Thao ơi...".

Cả nhà tôi đều yêu quý Trịnh Công Sơn, coi anh như một thành viên trong gia đình.

 Một ngày thu năm 1985, cửa nhà tôi bật mở. Trịnh Công Sơn ôm cây đàn guitar bước vào, reo lên: "Anh Văn! Em vừa sáng tác xong một bài hát về mùa thu Hà Nội. Vội sang đây đàn và hát cho anh nghe thử". Nói xong, Trịnh Công Sơn vừa đàn vừa hát:

Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ/ Nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu/ Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội/ Mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió/ Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ/ Cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua/ Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay, bờ xa mời gọi/ Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời...”.

Trịnh Công Sơn hát. Hát một cách say sưa. Chiếc kính rơi ra khỏi mắt, hai bàn tay gầy guộc lướt trên dây đàn...

Hà Nội mùa thu đi giữa mọi người/ lòng như thầm hỏi, tôi đang nhớ ai/ Sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi/ Sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi...”.

Cho đến lúc ấy, chén rượu vẫn lửng lơ trên tay cha tôi. Ông lặng đi nghe Trịnh Công Sơn hát. Nghe tới đây, chợt ông bừng tỉnh, đưa mắt nhìn Trịnh Công Sơn. Hình như ông định nói điều gì đó thì bất chợt giọng hát của Sơn lại khe khẽ vang lên

Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội/ Nhớ đến một người... để nhớ mọi người”.

Tiếng đàn rung lên run rẩy trôi vào hư vô. Trịnh Công Sơn từ từ buông tay khỏi hộp đàn. Ông nhặt kính lên đeo trở lại, rồi nhìn cha tôi "lòng như thầm hỏi"...

Cha tôi lặng lẽ nhấp một ngụm rượu rồi nhìn Sơn: "Bài hát của Sơn viết về mùa thu Hà Nội hay quá, mình nghĩ câu kết ở câu "Sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi" là được rồi, sao lại còn thêm mấy câu vĩ thanh vào làm gì?”.

Trịnh Công Sơn cười: "Đúng là em đã định kết ở đó rồi nhưng lại nhớ đến anh nên em đã làm thêm câu vĩ thanh "Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội, nhớ đến một người... để nhớ mọi người". Câu "Nhớ đến một người" là nhớ đến anh đã... Anh thấy có được không?

Cha tôi nhìn Sơn cười: "Thế thì được!".

Bài hát “Nhớ mùa thu Hà Nội” của Trịnh Công Sơn sáng tác năm đó chưa được trình diễn. Sau này, khi Trịnh Công Sơn xuất bản tập nhạc “Em còn nhớ hay em đã quên”, nhạc sĩ Văn Cao đã viết lời bạt cho Sơn: "Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền... Trong âm nhạc của Sơn ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc tự nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra". Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ chính là ở chỗ đó, ở chỗ không định ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim không chỉ ở trong nước mà cả ở ngoài biên giới nữa...".

Ngày lễ tang của cha tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bay ra Hà Nội từ hôm trước. Xuống sân bay, ông đến thẳng nhà tôi. Ông chạy lên cầu thang ôm lấy mẹ tôi khóc tức tưởi...

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết về nhạc sĩ Văn Cao như sau: "Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng,

Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi.

Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong thân phận riêng tư.

Quanh anh Văn là tranh. Là thơ. Là nhạc.

Vốn liếng cạnh tôi cũng là tranh, là thơ, là nhạc.

Anh và tôi đi trên cùng một con đường. Nhưng, anh là anh mà tôi vẫn là tôi. Cái lớn vô cùng và cái nhỏ cũng vô cùng...

Anh đã từng nhiều năm nặng nợ với âm nhạc, thi ca, hội họa. điều ấy có thật nhưng nhiều khi tôi vẫn băn khoăn và tự hỏi: Anh là ai mà lưu lạc giữa chốn Thiên Thai này?”.

Tháng 12-2020 Văn Thao / Van Ngệ CA

Trouble clicking? Copy and paste this URL into your browser:
https://anle20.wordpress.com/2021/04/22/trinh-cong-son-voi-van-cao/

Vua Minh Mạng tử hình bố vợ vì tham nhũng 30.000 quan tiền...k

Là ông vua nghiêm khắc bậc nhất của triều Nguyễn, Minh Mạng thường trị tội rất nặng những kẻ tham nhũng, kể cả hoàng thân quốc thích.
Vua Minh Mạng tử hình bố vợ vì tham nhũng 30.000 quan tiền

Lăng Minh Mạng ở Huế.

Vua Minh Mạng (1791-1841, tên húy Nguyễn Phúc Đảm) có công xây dựng Đại Nam trở thành quốc gia rộng lớn, hùng mạnh bậc nhất trong khu vực. Các nước lân bang đều phải kính nể.

Để trị tội tham quan, vua từng xử tử, chặt ngón tay của những kẻ có hành vi tham nhũng. Trong số các vụ án trị quan tham của Minh Mạng, nổi tiếng nhất là vụ tử hình bố vợ nhà vua là Huỳnh Công Lý, khi ông này tham nhũng 30.000 quan tiền.

Khắc tinh của tham quan

Theo Đại Nam thực lục, tháng 5/1823, Lý Hữu Diệm làm quan tại phủ Nội vụ, lấy trộm hơn một lạng vàng. Việc bị phát giác, bộ Hình đưa ông Diệm ra xét xử.

Theo quy định của Luật Gia Long, tội ăn trộm ngân khố dù ít hay nhiều cũng sẽ bị chém đầu. Nhưng xét thấy Lý Hữu Diệm vốn có nhiều công trạng, Bộ Hình đã tha tội chết, chỉ bắt đi đày viễn xứ. Khi án được tâu lên, vua Minh Mạng không đồng ý với đề nghị của bộ Hình.

Tranh vẽ Hoàng đế Minh Mạng trong sách của John Crawfurd (1783 - 1868)

Nhà vua nhất quyết yêu cầu Bộ Hình đem can phạm ra trước chợ Đông Ba chém đầu, cho mọi người trông thấy mà sửa mình với chỉ dụ: “Lý Hữu Diệm phải giải ngay đến chợ Đông, chém đầu cho mọi người biết, phải truyền cho viên lại Nội vụ phủ cùng đến xem, hoặc giả mắt thấy lòng sợ mà tự khuyên răn nhau để khỏi mắc tội, há chẳng là một phương thuốc hay cho bọn người sao?”.

Tháng 11/1831, Nguyễn Đức Tuyên, tư vụ Nội vụ phủ, ăn bớt nhựa thơm. Việc bị phát giác, vua Minh Mạng liền ra chỉ dụ: “Đáng lẽ cho trói đem ra chợ Cửa Đông chém đầu, nhưng lần này tạm chặt một bàn tay thủ phạm đem treo, xóa tên trong sổ làm quan, để lại cho nó cái đầu, khiến nó suốt đời hối hận và nhờ đó để làm cho mọi người đều biết tỉnh ngộ, răn chừa. Thế cũng là một cách trừng trị kẻ gian”.

Năm 1834, đến lượt tuần phủ Trịnh Đức bị thắt cổ chết vì tham ô một nghìn quan tiền nhưng lại nói dối bị giặc cướp mất. Cũng trong năm này, quản mộc Hồ Văn Hạ cũng mất đầu vì tham nhũng.

Xử tử cả bố vợ

Trong số những lần trị tội tham quan, vụ án xử tử cha vợ Huỳnh Công Lý của vua Minh Mạng đã gây rúng động dư luận lúc bấy giờ và nhiều năm sau này.

Huỳnh Công Lý là một trong những võ tướng nổi tiếng thời Gia Long, có công giúp Nguyễn Ánh dựng nên cơ đồ nhà Nguyễn, sau được phong làm Lý Chính Hầu.

Khi con gái được vua Minh Mạng phong làm Huệ phi, Huỳnh Công Lý càng được tin dùng. Ông được phong làm Phó tổng trấn Gia Định, quyền hành chỉ sau mỗi Tổng trấn Lê Văn Duyệt.

Quyền lực là thế, lại mang danh bố vợ nhà vua, nhưng cuối cùng, người này không thoát án tử vì tội tham nhũng.

Theo Đại Nam thực lục, trong thời gian Lê Văn Duyệt ra Huế (1816-1820), Huỳnh Công Lý được giao giữ chức Phó tổng trấn. Lợi dụng chức vụ và bề trên đi vắng, Huỳnh Công Lý thừa cơ vơ vét của cải từ nhân dân và binh lính.

Sau khi Lê Văn Duyệt quay về Gia Định, nhận được tin tố cáo Huỳnh Công Lý tham ô, ông báo về triều đình. Vua Minh Mạng ra lệnh tống giam bố vợ và cử quan Nguyễn Đình Thinh vào Gia Định điều tra.

Theo hồ sơ đã được trình lên vua, số tiền tham nhũng lên đến hơn 30.000 quan tiền. Biết chuyện này, vua Minh Mạng buồn rầu mà nói rằng: “Trẫm nuôi dân như con, thực không kể phí tổn. Nhưng bọn quan lại tham lam giảo quyệt, ngấm ngầm chứa đầy túi riêng, mà kẻ quan quả cô độc lại không được thấm nhuần ơn thực.

Gần đây Huỳnh Công Lý làm Phó Tổng trấn Gia Định không bao lâu mà bóc lột của dân trên ba vạn. Nếu các viên mục thú đều như y cả, thì dân ta còn nhờ cậy vào đâu. Trẫm dẫu có lòng săn sóc thương xót cũng không làm thế nào được”.

Khi Nguyễn Đình Thinh đang thu thập lời khai của các nhân chứng ở Gia Định, triều đình phát hiện thêm bằng chứng tham nhũng nữa tại Huế cũng liên quan Huỳnh Công Lý.

Trong thời gian làm quan ở Huế, ông đã bắt lính xây dựng nhà riêng ở bên bờ sông Hương. Khi biết tin, vua ra lệnh tịch thu nhà, bán lấy tiền giúp cho cấm binh.

Sau khi cuộc điều tra kết thúc, nắm rõ tội của Huỳnh Công Lý, sau một thời gian cân nhắc, vua Minh Mạng đã ra lệnh cho Lê Văn Duyệt đòi lại số tiền đó cho dân.

Khi thành án, vua ra lệnh trao hết hồ sơ cho triều đình bàn xét. Triều đình kết luận đáng tội chết. Năm 1821, Huỳnh Công Lý bị Tổng trấn Lê Văn Duyệt xử tử tại Gia Định, tài sản bị tịch thu để trả lại cho quân lính và dân chúng.

Minh Mạng là vị vua thứ hai của triều Nguyễn, ông là con thứ tư của vua Gia Long, sinh năm Tân Hợi tại Gia Định. Sau khi vua Gia Long qua đời, Minh Mạng được chọn lên kế vị vào năm 1820. Ông trị vì đất nước đến khi qua đời năm 1841.Theo sách Chín đời chúa, mười ba đời vua triều Nguyễn, Minh Mạng là ông vua hết sức cần mẫn, làm việc không biết mệt mỏi, hết lòng vì nước, là tấm gương sáng cho các bậc đế vương noi theo.Ông là vua có nhiều con nhất trong số các vị vua của chế độ phong kiến Việt Nam với 142 người, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa.

Theo NGUYỄN THANH ĐIỆP / TRI THỨC TRỰC TUYẾN

anle20 

Vấn đề khi nhấn? Chép và dán URL này vào trình duyệt:

https://anle20.wordpress.com/2021/11/23/vua-minh-mang-tu-hinh-bo-vo-vi-tham-nhung-30-000-quan-tien/